
Bác Ba Phi - P2
47 – BẮT RẮN HỔ
Hồi ấy, tụi tui đóng quân gần Cơi Năm, nơi bác Ba Phi ở. Thỉnh thoảng, bác vô thăm tụi tui và cung cấp nhu yếu phẩm. Có lúc thì mấy cây thuốc gò, mấy lố ngoại cảm tán, không quên mấy cái lưỡi lam cạo râu. Một lần tụi tui ước :
![]() | - Mùa nắng này, phải chi được một vài con rắn hổ nấu cháo đậu xanh ăn cho mát! |
Thấy con cóc, nó chảy chồm chồm, nó táp cái bốp mắc lưỡi câu, thế là cứ bắt ! Thứ đi chĩa, đào hang đó nghe, có tì vết ăn hổng khoái !
Nghe tụi tui đòi học nghề bắt rắn của bác, bác Ba quay sang, nói :
- Coi vậy mà bắt kiểu đó đâu có đủ nhậu. Tao còn cách này bắt hết trơn rắn hổ mà khỏe re vậy đó ?
![]() | - Trời ! Tài quá ha ! Ờ, mà cách nào bác Ba ? |
- Sao vậy bác Ba ? Sao vậy ?
- À, tại tao chưa mở nắp lọp!
Tụi tui cười cái rần!
- Lọp có nắp sao bác Ba?
- Ờ, lọp đâu có nắp, tao quên! À mà nó biết mình gài bẫy, nên nó hổng vô. Chờ hoài thấy hổng chắc ăn, tao tính bỏ về, thì thời may có con rắn nhỏ chắc là đói lắm, bạo dạn bò vô. Thấy con kia vô được không mắc bẫy như hồi trước, nên mấy con sau tiếp tục bò vô đầy lọp. Chờ cho con cuối cùng rúc vô lọp, tao mới giở lọp bỏ xuống xuồng, chống về. Chắc mẩm kỳ này, chở ra chợ Cà Mau bán, mua thuốc gò hút xệ môi. Ai ngờ, một con rắn chừng năm kí lô vậy đó, nó tống sút đít lọp bò ra nhào tới, phóng vô mình tao táp cái bốp, dính cái quần. Hết hồn hết vía, tao chống sào phóng lên bờ. Ai dè dây lưng tuột, con rắn đớp tiêu luôn cái quần của tao.
Tụi tui ôm nhau bò ra mà cười, cười đến chảy nước mắt. Một lát, có đứa cắc cớ hỏi :
- Rồi làm sao về nhà, hả bác Ba?
- Tao theo kinh kéo xuồng về… lạnh muốn teo…
- Hèn gì, bữa nay bác đem vô cho tụi này có nửa khúc thuốc gò.
48 – BẮT HEO RỪNG
Hồi đó, ở cặp theo phía rừng U Minh này, có làm ruộng nương, rẫy bái gì được đâu ! Heo rừng ngày đêm kéo từng bầy ra phá phách chịu không nổi. Những con heo nọc lớn như con bò, đi ra tới xó, rượt nhảy đực heo nái nuôi trong nhà. Heo đẻ ra con nào mình mẩy cũng dọc dưa, mỏ nhọn thon thon...
![]() | Năm đó, tui có trồng mười công khoai lang với khoai môn. Khoai trúng ơi là trúng. Khoai lang lá mướt rượt như thoa mỡ, đọt bò vượt. Còn khoai môn, tụi con nít ngắt lấy lá lớn thả lật ngửa dưới kinh, làm xuồng bơi qua bơi lại. Vậy mà chỉ trong một đêm thôi, tui mắc công chuyện phải đi ra sông Ông Đốc, mười công khoai lang bị heo ăn sạch bách. Ra thăm rẫy, tui thấy mà buồn ghê. Heo lớn, heo nhỏ gì cũng ủi lút nửa con xuống đất để ăn củ khoai. Tức bụng quá, tui chạy tuốt về nhà mấy cây mác vót ra. Cây mác của tui bén như nước. Tui đi nhè nhẹ, cứa cho mỗi con một mác vào lưng |
. Cứa xong, tui vỗ tay nạt lớn : “Heo ! Ôi là trời!”. Bầy heo giật mình nhảy dựng lên, định tốc chạy. Nhưng nào có dễ đâu. Giống heo rừng xương sống ngay đơ như cây đòn gánh, hễ con nào phóng mạnh một cái là sụm xuống ngay.
Tui kêu bà con chống xuồng ra, chở về xẻ thịt, đem đi bán. Mùa đó, tui bán thịt heo rừng lại lời gấp mấy lần mười công khoai lang chúng ăn.
49 – CHIẾC TÀU RÙA
Mùa khô năm đó, túng tiền xài, tui mới nghĩ một cách bắt rùa để chở ra Sông Đốc bán. Ra nhà dượng Tư nó, tui mượn một chiếc ghe cà đom chở chừng năm trăm giạ lúa, chống vô lung Tràm, đậu cặp mé phía dưới gió, cặm sào hai đầu cho thật chắc. Tui còn kéo tấm đòn dày bắc thẳng lên bờ. Làm xong, tui đi vòng phía trên gió, nổi lửa đốt một hàng dài. Mùa khô ở đây, cỏ ngập tới lưng quần, dễ làm mồi cho lửa lắm.
![]() | Lửa bắt đầu bốc ngọn, tui lộn trở về chỗ đậu ghe, ngồi chờ. Độ chừng hút tàn điếu thuốc, tui thấy rùa đã bắt đầu bò xuống lai rai. Lửa phía trên gió bắt vào các bờ sậy, cháy, nổ rốp rốp, chắc còn hơi hướm, nên chúng sắp thành hàng một, nối đuôi nhau bò tới. Con nào cũng nghển cổ lên cao, mắt ngó chừng dáo dác. Một lúc, gió thổi mạnh lên, lửa cháy rào rạt. Lúc này, chúng mới hốt hoảng, túa chạy ngời ngời, không còn trật tự gì nữa. |
Rùa vàng, rùa nắp, rùa quạ, rùa hôi, rùa đém... đổ tới từng bầy, rồi cứ theo cây đòn dầy, ùa đại xuống ghe. Giống rùa là chúa sợ khói lửa. Chúng chạy bằng ba chân, còn một chân trước đưa lên che mặt. Con nào cũng chảy nước mắt, nước mũi choàm ngoàm.
Thấy chúng tràn xuống quá xá, tui ngồi gần đầu cây đòn dài, coi con nào lớn thì cho đi, con nào nhỏ cứ hất mạnh tay một cái là lọt xuống sông. Một hồi, rùa xuống đầy ghe, tui nhổ sào, rút đòn dầy, chống luôn ra chợ. Nhưng khổ nỗi, số rùa nhỏ bị rớt xuống nước cứ bấu theo ghe kết thành bè, một chân chúng vịn vào be ghe, còn ba chân cứ đạp nước, theo trớn ghe đi tới. Chiếc ghe bị rùa đẩy chạy tới ào ào. Tui ngồi phía sau kềm lái, mở gói htuốc ra, vấn một điếu hút phì phèo.
Ra tới gần chợ sông Ông Đốc, tui bỗng nghe mấy người đàn bà bên kia sông la chói lói :
- Xuồng chở lúa, khẳm lắm ! Tàu làm ơn tốp lại máy chút nghe !
Thật hết phương tốp lại, tui chỉ còn biết ngồi lắc đầu chịu chết. Tui khoát tay :
- Mấy bà con làm ơn nép sát bờ giùm chút đi. Tui tốp máy hổng được, vì đây là chiếc tàu rùa !
50 – CÁI TĨN NAM VANG LẺ BẠN
Mấy chú hỏi tại sao nhà tui có cái tĩn Nam Vang lớn mà tốt vậy à? Cái tĩn màu da lươn bóng ngời, đựng trên một giạ gạo đó. Hồi xưa, nhà tui có chẵn cặp chớ đâu phải cu ki một cái này. Cặp tĩn của ông bà để lại mấy đời. Từ miệt Sa Đéc, vợ chồng tui xuống, chỉ có một cặp tĩn đó với chiếc giỏ mây, đến đây sanh cơ lập nghiệp. Gia sản lưu truyền mà, nhưng đã bị mất đi một cái. Mỗi lần nhớ tới, tui thấy tiếc hùi hụi trong bụng.
Đó là một buổi chiều, tôi xách cặp tĩn ra lung định múc nước về xài. Ra đến, thấy cá rô phóng như cơm sôi, tui mới nghĩ cách kiếm vài con để chiều ăn. Tôi bẻ một nhánh tràm con làm cần câu, bứt sợi dây bẫy cò của ai đó làm nhợ, rút cây lông nhím trên đầu tóc xuống uốn cong làm lưỡi câu, bắt một mớ cào cào làm mồi. Cá rô vùng đất U Minh này hồi mới khai mở thì khỏi phải nói. Con nào con nấy cân nặng tay, màu da đen bóng, có râu. Vừa bỏ mồi xuống là thấy “chàng y” đớp liền. Nhợ câu bị lôi xiên xiên về phía trên gió. Mình nhóng nhóng thử ngọn cần câu, nghe bên dưới trì trì thì giật lên một cái. Một chú rô mề đỏ đuôi, có hai sợi rây dài thượt, giãy lõm bõm. Cứ vậy mà lôi lên.
Cái miệng tĩn vòng tròn cỡ hai gang tay, nhưng phải cầm con cá rô ấn mạnh, cái đầu nó mới chụp được vào trong. Tui vừa câu vừa “ấn” một hơi độ nửa tiếng đồng hồ, thì đầy nhóc một tĩn cá. Còn lại một tĩn, tìm một khúc cây làm đòn, gánh về. Đến chừng bắt cá ra làm thịt, bà vợ tui cằn nhằn vì lấy cá ra khó quá.
Thử hỏi, cá rô mà cầm hai tay ấn mạnh cái đầu nó mới phụp vô miệng tĩn, thì tới chừng bắt ra làm sao lôi ngược nó ra được? Bị vợ cằn nhằn một hồi tui nổi khùng, xách cây đập cái tĩn một phát cho xong. Thế là bây giờ chỉ còn có một cái.
51 – CÁ NUÔI
![]() | - Nè nè ! Anh em đừng chài cá bổi: Cá bổi ăn không được đâu ! Anh em bộ đội thì tui thương lắm, mới nói cho mà biết vậy đó. Cá bổi (sặc rằn) tui nuôi trong vuông đất này là loại đặc biệt, chớ không phải loại thường nuôi để bán đâu. Chú em mày cất chài đi. Cá bổi phệt của qua coi lớn bằng cái quạt mo vậy, chớ thịt ăn chát ngầm. Thôi, vô nhà biểu mấy đứa nhỏ lấy vài cần câu cá rô với một cần câu cá lóc ra đây. Đứa bắt cào cào, đứa bắt nhái nhót mà câu, mà nhắp một hồi ăn chết mệt không hết. Mấy con cá bổi phệt lỡ chài lên được đó, thả xuống đìa lại đi. Thứ cá rô mề của qua, hai đứa câu một lát có mà khiêng, chớ quân ngũ nào ăn cho hết. Con nào con ấy bằng bàn tay xòe, da đen trạy, trứng óc nóc, đuôi đỏ chót, mỡ cứng như mỡ rùa vậy - Còn nói chi đến thứ cá lóc kềnh của qua nuôi. Con nào mà không mọc hai sợi râu dài cỡ lóng tay sắp lên. Chú em mày thử nhắp lên vài con cá lóc thì biết. Tụi nhỏ xóm này thường lấy vảy cá lóc của qua làm đồng xu để đánh đáo đó |
- Vì cá của qua có cho ăn mồi đàng hoàng mà. Loại nào cho mồi nấy. Chú em mày trông thấy đó, vườn của qua trồng rặt có ba thứ cây: xoài, cau với dừa. Suốt năm, cây sai oằn cứ để cho trái rụng xuống cho cá ăn. Cá bổi thì ăn cau tầm vu nên thịt nó chát ngầm. Cá rô thì ăn xoài, bởi vậy cá rô nấu canh chua không cần bỏ me, dằm me gì đâu. Nè ! Ráng nhắp ít con cá lóc mang về tối nấu cháo ăn tẩm bổ nghe. Cả vườn dừa của qua vậy đó, dừa khô cứ rụng xuống mương, rụng bao nhiêu thì cá lóc táp ăn hết trọi. Bởi vậy thịt cá lóc nấu cháo khỏi phải vắt nước cốt dừa mà ăn cũng béo ngậy.
52 – THU HOẶCH LƯỠI NAI
Năm ấy, mấy chục công lúa tui đang cấy cặp mé rừng, tới mùa không còn thu hoạch được một hột để nhổ râu. Lúc lúa đứng cái, lũ nai kéo về cả bấy ăn tới tới. Cất chòi giữ ngày giữ đêm, tốn mấy chục cái bồ cạp bằng thùng thiếc, mà bọn nai bầy vẫn trơ trơ không sợ. Đánh bẫy, giăng giò bắt được một, thì chúng kéo lại hai, ba. Nai chà tràn vô xóm rượt chém bò cổ, nhảy đực bò cái, đẻ ra con nào cái sừng cũng có nhánh có nhóc.
Ai cũng bảo là chắc phải để xứ này cho nai ở. Tui nhất định không chịu thua, cố tìm hết cách để trị lũ nai này. Đêm đêm, tui đi rình xem cách chúng ăn lúa. Nó ăn cũng như trâu bò ăn vậy thôi. Nghĩa là lưỡi cũng le ra, ngoéo gọn bụi lúa rồi giựt mạnh lên.
Tui về nhà, ngồi suy nghĩ, nhủ thầm : “Như vậy là chết cha chúng mày rồi” ! Xách mác ra vườn, tui đốn những cây tre lồ ô mang vô. Tui lần lượt bập nhè nhẹ lưỡi mác vào cật cây tre, rồi lấy ra một miếng cật tre dài cỡ chiếc đũa bếp, hai bề cạnh bén như dao lam. Làm tới chiều, tui vác ra ruộng, mỗi bụi lúa tui cắm vào một miếng cật tre cho thật chắc. Xong xuôi tui về nhà biểu mấy đứa nhỏ cứ việc chỏng cẳng mà ngủ cho thẳng giấc đi, đừng lo canh tuần gì nữa.
Rạng sáng bữa sau, tui chống chiếc xuồng be ra ruộng. Tui xăn quần lội xuống, tay nắm be xuồng dắt tới, tay mò theo từng gốc lúa mà lượm lưỡi nai. Cái thứ tre lồ ô mỏng te, cật bén như nước. Vô phúc cho con nai nào nhè ngoéo cái lưỡi vô đó mà giật lên thì thế nào cũng phải đứt lưỡi ra.
![]() |
|
53 - ẾCH ĐỜN VỌNG CỔ
Tui có bầy vịt, hễ bum búp lông cánh là lần lượt mất sạch trơn. Tức quá, rình mò mấy bữa, tui mới biết là bị ếch ăn. Chỗ đuôi đìa, dưới gốc bụi tre có một hang ếch lớn quá cỡ.
![]() | “Ăn thịt vịt tao thì mầy phải đền mạng”. Nghĩ vậy, tui mới lấy sợi dây thép quai thùng dầu hôi uốn thành một lưỡi câu, lấy sáu sợi dây chì bện lại làm nhợ, một đầu buộc con vịt xiêm vừa ra ràng, một đầu buộc vào bụi tre. |
Mặt trời lên độ một con sào. Tui ngồi rình, thấy một con ếch bà từ trong gốc tre lù lù lội ra. Con ếch thấy con vịt, men lại ngửi ngửi rồi lắc đầu, bỏ đi. Biết nó chê con vịt này còn hôi lông nên chưa chịu ăn. Bữa sau, tui đổi một con vịt mái đang đẻ, mập sà đít. Hừng sáng là tui cũng đến chỗ hôm qua ngồi rình.
![]() | Cũng đến lúc mặt trời lên độ một con sào, con ếch bà đó lại cũng vạch bèo lội ra. Trông thấy con vịt ta mập ú, nó ngó dáo dác, mặt mày hớn hở, gật gật đầu mấy cái. Con ếcn khỏa bèo, hớp nước súc miệng sào sạo, phun ra cái phèo, rồi chồm tới bên con vịt. Nó nhướng mắt, táp bụp rồi nhai rau ráu, nuốt một cái ực. Như vướng phải lưỡi câu, nó nhợn trở ra. Thấy tình thế không xong, tui vụt đứng dậy, la “ếch” một tiếng. Con ếch giật mình nhào ngang, bị lưỡi câu xóc hàm hạ, nó giãy đùng đùng, sáu sợi nhợ câu thẳng băng. Nó lúc lắc cái đầu, sáu sợi dây chì rẽ quạt ra. Hai tay nó quào lia lịa. Sáu sợi dây bật ra những tiếng kêu bổng trầm “tằng tăng, tủng tẳng” khác nhau. Tui ngồi nghe. Sao có chỗ vô sang, ra hò muồi quá ! Một hồi phát ngứa miệng, tui ứng thanh nghe, ca bậy sáu câu vọng cổ chơi... |
54 – CÂU CÁ SẤU
![]() | Một lần, có người khách mới tới U Minh, hỏi bác Ba : Ổng trả lời : Người khách liền hỏi : Bác Ba Phi đáp : |
- Khó gì đâu, câu bắt nó thôi. Bửa hổm, tui và bả đi câu. Tui làm một cái doi thiệt bự, rồi hai vợ chồng chèo thuyền đi. Tới sông Quảng Phú, gặp một con cá sấu lớn. Nó mắc lưỡi câu, hai sợi doi nổi ở một khúc eo sông. Tui thử kéo lên. Chà ! Một con cá sấu thiệt lớn. Tui quấn sợi doi trước mũi thuyền. Thế là sấu chạy, kéo luôn cả thuyền. Tui vội la bả: “Bà cầm lái cho ngay kẻo chìm !”. Con cá sấu kéo thuyền của vợ chồng tui từ sông Quảng Phú tới vàm Cái Đôi mới bắt được nó.
Người khách lại hỏi :
- Thế thì làm sao đi ngang đập Cây Dừa ?Bác Ba Phi thản nhiên :
- Thì nó kéo thuyền qua đập luôn chớ sao !
55 – CHÀ GẠC BẰNG NAI
Tui nuôi có một con trăn gấm, cũng không còn nhớ là được mấy năm. Nó lớn quá cỡ, lớn đến nỗi mình kiếm đồ ăn cho nó không xuể. Mỗi thnág tui cứ thả cho nó ra rừng tự kiếm ăn một lần. Có lần vài ngày, có lần cả tuần lễ nó mới về. Nó ăn nào là chồn đèn, chuột cống, cúm núm, trích cồ...
![]() | Có một lần, cũng như thường lệ, bầy trẻ cho nó ra rừng kiếm ăn. Nó đi hai bữa... rồi ba bữa, cũng chưa thấy về. Rốt lại mười bữa rồi mất tiêu luôn. Bầy trẻ tủa ra quần kiếm, cũng không gặp. Chắc là nó về lại rừng. “Lá rụng về cội” thôi. Loài thú rừng mà... Cả nhà ai cũng tiếc con trăn gấm, nhưng ngày qua ngày, rồi cũng lãng quên. Vào độ nửa tháng Chạp năm đó, nghe tu hú kêu ngoài bụi tre, thấy gió chướng vờn trên lá cây, tui nhớ ra đã gần ngày Tết |
. Vợ chồng con cái tui vác phảng, ôm lưới, lội ra cái đìa mé rừng mà chụp cá. Cái đìa mới đào hồi mùa hạn, chưa kịp cắm chà gộng gì cả. Nhưng dù sao cũng có cả đủ ăn Tết. Nhờ cái nó nhẹ dọn cỏ và khỏi nhổ chà.
Cha con tui bỏ lưới trên bờ, dùng phảng rong mé cỏ. Một chuyện lạ đời là mỗi nhát chém xuống, phảng nào cũng trúng nhằm chà nghe rốp rốp.
- Ai lén cắm chà đìa của mình vậy kìa ? Tui tự hỏi, rồi cố dọn cỏ cho nó xong. Mấy cây phảng giở lên coi, cây nào cũng mẻ sếu sáo như lưỡi cưa hết thảy.
Đến khi cỏ được kéo cả lên bờ, tui lại thấy dưới đìa đầy chà gộng ló lên mặt nước. Kỳ lạ là toàn chà cùi, không có nhánh nhóc gì hết. Chà bắt đầu xạo xự mạnh lên như có ai lặn ở phía dưới, rồi cầm mà rung. Một lúc sau, toàn bộ chà phía dưới đìa kéo hết lên bờ. Chừng đó cha con tui mới bật ngửa. Té ra con trăn của nhà mình lâu nay nó ra rừng ăn phải bầy nai chà, nên chà gạc nai đâm lủng lưng, trổ lên phía trên. Có lẽ vì bị đau quá, nên nó còn nằm đấy dưỡng bịnh, chưa chịu về chuồng.
56 – CÂY MẬN BIẾT ĐI
Thu hoạch mùa màng xong, rảnh rỗi là cứ nằm ngửa ra nằm gác giò giàn bếp mà ngủ nghỉ. Nghỉ ngơi riết rồi cũng đâm ra chán, tui móc đất vò bậy vài chục viên đạn bắn ná thun chơi, rồi thả rề rề ra hậu đất. Mọi khi ở con bờ này vào những buổi trưa, trích cồ về đậu nghỉ mát nơi ngọn cây đen kịt. Vậy mà bữa nay im lìm, vắng hoe. Đi vòng vòng một hồi, tui thấy buồn, bắn bậy ba con chim sâu một hồi hết sạch mấy chục viên đạn. Nghe khát nước, tui rề lại cây mận chỗ góc bờ để bẻ vài trái mận ăn chơi. Đến nơi, thấy cây mận trái sai, chùm nào chùm nấy oằn xuống như buồng dừa nước. Cái thứ mận này coi trái bóng lưỡng vậy chớ bên trong hột lớn.
![]() | Tui leo lên cây mận, nằm ngửa chỗ cháng ba, bẻ từng trái nhấm nháp. Tàng cây mát như che dù, lại có gió thổi hiu hiu, tôi nghe lòng thơi thới làm sao. Cộng thêm mấy con chi chìa vôi “kéo đờn vi-ô-lông”, đâm hứng chí, tui nói lối rao ra giọng Nam Xuân một hồi, rồi vô muồi sáu câu vọng cổ. Đôi mắt lim dim mơ màng, tui đưa giọng ca trầm bổng theo làn gió rì rào qua đọt cây. Các loài chim nghe tui ca, bu quanh, nhảy nhót, hót theo ríu rít. Đến chỗ xuống muồi, tui búng song loan cái tróc, bỗng nghe tiếng động rột rẹt. |
Mở mắt ra, tui vụt thấy một con nai chà cũng đang đứng gần bên thưởng thức giọng ca của tui. Thấy con nai chờn vờn sắp chạy, tui lật đật bẻ một trái mận bóc lấy hột, nạp vô ná thun bắn vào mặt nó một phát. Hột mận xuyên lủng vào mắt con nai. Nó đau quá, la lên “bét bét” rồi tốc chạy vào rừng.
Câu chuyện con nai đó lâu ngày, tui đã quên mất. Đến ba năm sau, nào ngờ một bữa, tui đi gặt lúa ở miếng đất cặp mé rừng, thì được tái diễn lại. Số là vào lúc nắng trưa gay gắt, tui máng vòng hái lên cùi chỏ tay, đi lại bờ để tìm một bóng cây đụt mát. Hai mắt đã tá hỏa, nên tui tấp đại vào một tàng cây gần nhất mà ngồi dựa lưng. Hết cơn mệt, tui nhìn kỹ lại, cây ấy là một cây mận. Ôi, nó đang sai oằn những trái ! “Buồn ngủ lại gặp chiếu manh”, tui với tay, bẻ vài trái mận ăn thử. Mận này cũng khá ngọt, nhưng sao lại có mùi hơi tanh tanh.
Tui vói bẻ một trái nữa. Nào ngờ cây mận vụt nhích đi chỗ khác và kêu lên một tiếng “bét”. Tui giật mình, đứng dậy. Ối trời ơi ! Cây mận vụt tốc chạy ào ào vào phía rừng !
Lấy làm lạ, tui đuổi theo xem thử. Chẳng ngờ, tui càng rượt theo, cây mận càng chạy nhanh hơn, để lại đằng sau những tiếng kêu “bét, bét”. Bà con biết gì hông ? Cây mận mọc trên đầu con nai.
57 – MÔ ĐẤT BIẾT ĐI
Đang mùa phát đất mà nước đầy ắp cánh đồng. Cái năm gì thiệt là kỳ cục ! Nước sông Đốc màu ngà ngà dâng lên, nước U Minh đen cuộn tràn xuống. Gió Nam thổi hù hù. Trên ruộng mà sóng bủa ba đào. Chuột bọ, rắn rít hết chỗ dựa, trôi tấp vào các ngọn cây, đeo có đùm. Nước U Minh đỏ thẫm như nước trà, chảy ngập tới đâu, thì cây cỏ èo ọp tới đò. Lợi dụng lúc này phát đất là tốt nhất.
Bữa đó, tui vác phảng ra đồng như thường lệ. Nghĩa là nghe cúm núm kêu chừng hết canh tư, thì tui đã có mặt ngoài ruộng. Đồng nước mênh mông ngập tới ba đì, lạnh run lên, không tìm được một mô đất mà để viên đá mài phẳng. Tui lội vòng vo cho tới hừng đông, may thay gặp được một mô đất thật cứng, cao hơn mực nước độ hai gang tay. Tui rề lại, để viên đá mài lên, ngồi mài phảng. Mài “nước lớn”, tui lại mài “nước ngọt” rồi liếc mép. Xong đâu đó, tui còn mở gói thuốc giồng ra vấn một điếu hút phì phèo. |
Đến khi trời sáng rõ mặt, tui trực nhìn lên :
- Ủa ! Ở đâu mà vườn tược rậm rạp, trông lạ quá vậy kìa ? Quái lạ ! Tại sao lại ở ngay nhà mình ?
Rõ ràng, bên tay phải tui là cái chuồng trâu, tay trái chuồng heo, chính giữa có bếp nấu cơm. Bà vợ tui đang lom khom chụm bếp. Thiệt là như một cảnh chiêm bao, tôi không tài nào hiểu được.
Cuối cùng, vợ tui bước ra, ngẩng lên, vụt la chói lói :
- Bớ người ta ơi ! Làm ơn cứu chồng tui với !
Tui bật cười :
- Bộ bà điên hả ?
Bả đứng nhìn tui mà mặt mày tái mét, đưa tay ngoắc :
- Ông ơi ! Ông phóng xuống, chạy lai đây, mau đi !
Tui cười hề hề, thủng thỉnh bịt khăn đầu rìu qua trán, lấy cục đá mài, vác phảng lên, bước xuống khỏi mô đất, đi lại bên vợ tui.
Bả nắm vai tui, xoay ngược lại :
- Ông ngó trở lại coi, kìa !
Tui nhìn lại cái mô đất mình vừa mới bước xuống. Úy trời đất, thánh thần, thổ võ ơi ! Con rùa ! Con rùa vàng lớn quá trời. Té ra tui ngồi mài phảng trên lưng nó hồi hôm tới giờ mà không hay.
Đang mùa phát đất mà nước đầy ắp cánh đồng. Cái năm gì thiệt là kỳ cục ! Nước sông Đốc màu ngà ngà dâng lên, nước U Minh đen cuộn tràn xuống. Gió Nam thổi hù hù. Trên ruộng mà sóng bủa ba đào. Chuột bọ, rắn rít hết chỗ dựa, trôi tấp vào các ngọn cây, đeo có đùm. Nước U Minh đỏ thẫm như nước trà, chảy ngập tới đâu, thì cây cỏ èo ọp tới đò. Lợi dụng lúc này phát đất là tốt nhất.
![]() | Bữa đó, tui vác phảng ra đồng như thường lệ. Nghĩa là nghe cúm núm kêu chừng hết canh tư, thì tui đã có mặt ngoài ruộng. Đồng nước mênh mông ngập tới ba đì, lạnh run lên, không tìm được một mô đất mà để viên đá mài phẳng. Tui lội vòng vo cho tới hừng đông, may thay gặp được một mô đất thật cứng, cao hơn mực nước độ hai gang tay. Tui rề lại, để viên đá mài lên, ngồi mài phảng. Mài “nước lớn”, tui lại mài “nước ngọt” rồi liếc mép. Xong đâu đó, tui còn mở gói thuốc giồng ra vấn một điếu hút phì phèo. |
Đến khi trời sáng rõ mặt, tui trực nhìn lên :
- Ủa ! Ở đâu mà vườn tược rậm rạp, trông lạ quá vậy kìa ? Quái lạ ! Tại sao lại ở ngay nhà mình ?
Rõ ràng, bên tay phải tui là cái chuồng trâu, tay trái chuồng heo, chính giữa có bếp nấu cơm. Bà vợ tui đang lom khom chụm bếp. Thiệt là như một cảnh chiêm bao, tôi không tài nào hiểu được.
Cuối cùng, vợ tui bước ra, ngẩng lên, vụt la chói lói :
- Bớ người ta ơi ! Làm ơn cứu chồng tui với !
Tui bật cười :
- Bộ bà điên hả ?
Bả đứng nhìn tui mà mặt mày tái mét, đưa tay ngoắc :
- Ông ơi ! Ông phóng xuống, chạy lai đây, mau đi !
Tui cười hề hề, thủng thỉnh bịt khăn đầu rìu qua trán, lấy cục đá mài, vác phảng lên, bước xuống khỏi mô đất, đi lại bên vợ tui.
Bả nắm vai tui, xoay ngược lại :
- Ông ngó trở lại coi, kìa !
Tui nhìn lại cái mô đất mình vừa mới bước xuống. Úy trời đất, thánh thần, thổ võ ơi ! Con rùa ! Con rùa vàng lớn quá trời. Té ra tui ngồi mài phảng trên lưng nó hồi hôm tới giờ mà không hay.
58 – CON TRĂN RỒNG
Mùa nước năm đó, có một đêm trời mưa bão làm đổ ổ quạ ngoài cây tràm. Lũ cò, diệc bị gió đánh rơi lướt khướt, rã cánh té đầy đường. Ở những lùm cây rậm, loài dơi, quạ đeo thành đùm bằng cái thùng thiếc, sát vào các nhánh cây. Rừng tràm U Minh đêm đó nổi sóng ì ùm không thua gì sóng biển. Vợ chồng con cái tui ngủ trên túp chòi có sàn gác, bị giông đẩy đưa tựa ngư ngồi xuồng nan trên biển.
![]() | Độ nửa đêm, tui nghe bên dưới sàn gác có tiếng động ở gần những bụi chung quanh. Chuyện đó thì cũng chẳng có gì lạ. Thường những đêm mưa giông như vậy, lũ thú rừng bị ướt ổ, đâm ra quạu, cắn lộn với nhau kêu ầm lên. Đến sáng tỏ mặt, dượng Tư nó từ đàng nhà mang một cái giỏ trên vai đi lượm cò rớt, dài dài lại nhà tui. Tui thì còn ngồi co ro trên sàn gác, chưa chịu dậy. Đang ngồi bập bập điếu thuốc, tui bỗng nghe dượng Tư nó la bài hãi bên dưới : - Trời đất quỷ thần ơi ! Cái con gì dị hợm kỳ đời, anh Ba ơi ! |
Tui lật đật vớ cây mác thong, tuột xuống thang gác, chạy tới xem. Là tay thợ rừng đã từng sành sỏi, nhìn con vật đó, tui cũng phải bí lù, không thể hiểu nổi là giống vật gì. Cái mình là mình con trăn, nhưng trăn sao đầu lại có sừng ? Cái đầu là đầu con rồng, nhưng tại sao rồng gì lại không chân mà tiếng kêu nghe “bét bét” ?
Con vật bắt đầu bò đi. Mình nó láng ngời, suôn óng, đầu có sừng chà chôm, cổ nghển lên, miệng cứ kêu “bét bét”. Tui đặt tên đại cho nó là “con trăn rồng”. Nhưng dượng Tư nó không chịu, dượng bảo là con trăn gấm vừa nuốt một con nai, đầu nai còn ló ra ngoài, nên nhìn thấy nó lạ lùng như vậy.
Con trăn rồng ấy cừ bò tới, nghển cổ, quơ sừng kêu “bét bét”.
59 – DẦU MỠ RẮN
Mấy chú coi kỹ lại đi, có phải là dầu hôi đâu ? Dầu mỡ rắn đó đa ! Hồi nẳm tới giờ, tui lấy về chứa để thắp đèn măng xông, đèn tọa đăng, đèn ống khói, đèn con cóc, đèn khí đá… Ủa quên, đèn khí đá thì không phải, tôi thắp toàn bằng dầu mỡ rắn.
![]() | Số là, vào mùa nước chum năm đó, tui chống xuồng chở bầy chó đi săn. Con chó cái Nô của tui với tám con, con của nó đã phát thịt nên rất hăng. Lũ chó ngồi trước mũi xuồng, còn tui đứng chống phía sau, cây mác thong để cặp bên chân. Vô rừng sâu một đỗi, chín con chó bắt hơi htịt, ngoắc đuôi, tai đảo tới, mũi khịt khịt. Rồi cả bầy phóng lên bờ, đuổi ào ào vào rừng. |
Nhưng chỉ lát sau, bầy chó chạy bò càn trở lại, la oẳng oẳng, vãi cứt, vãi đái... Tui nghe cây rừng bị quật ào ào, gãy rốp rốp như một cơn bão lùa tới. Trực nhìn lên, tui thấy một con rắn hổ mây lớn thôi là lớn, nó đang rượt đuổi, toan nuốt trọn bầy chó. Tui vội chụp cây mác, định nhảy lên cứu bầy chó, nhưng không kịp nữa. Con rắn đã nuốt sạch hết chín con chó, và nó đang lé mắt nhìn tui, đầu nghểnh lên cao hơn đọt cây, hai hàm răng chơm chởm, trệu qua trệu lại. Con rắn nhìn tui, nháy nháy cặp mắt hình như nó muốn mỉm cười. Hoảng quá, tui vội chụp cái bao bố tời để gần bên đội lên đầu. Con rắn phóng tới, tui trịch ngang. Nó mổ xuống, ngoạm nhằm cái bao, nhai nhai. Lợi dụng lúc con rắn còn lo rẩy cho cái bao văng ra khỏi miệng, tui liền nhanh tay úp chiếc xuồng lại, nằm gọn bên trong. Tui liền dựng đứng cây mác thong lên, thủ thế. Tui nghe chiếc xuồng rung lên bần bật và chuyển mình lún dần xuống. Chiếc xuồng lún mạnh xuống, mũi mác đâm thấu đáy sông trổ lên trên. Bỗng nghe một tiếng “re... rẹt”, chiếc xuồng liền phình lên. Biết là con rắn đã bò qua khỏi, tui chun ra, lật ngửa chiếc xuồng lại. Nghe bầy chó kêu hực hực, ngó lại, tui thấy còn đủ chín con, nhưng mình mẩy chúng dính đầy nhớt nhao, bọt bèo. Và trên mặt nước, thứ gì trắng trắng nổi lều bều như xăng đặc. Nhìn xa đằng kia, tui thấy con rắn bò đi, cái đầu lắc la lắc lư. Như vậy là lúc mũi mác của tui đâm lủng đáy xuồng thì cũng là lúc con rắn bò ngang, nên bụng nó bị mũi mác rạch cho đổ mỡ, và tuôn ra như vậy. Tui vội vã kêu bả mang thùng và lu ra vớt hết số mỡ rắn nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Không kể phần cho hàng xóm, tui thắng mỡ ấy để dành thắp đèn suốt mấy năm mới hết.
60 – SÂN QUẠ
Ở Phong Lưu, Canh Đền có một sân chim, mỗi lần người ta bắt hàng vạn con còng cọc, cò long bong, cò quắm, vạc, diệc mốc chở ra chợ bán. Phía sau vạt đất tui thì lại có “sân quạ”, chuyện mới lạ đời !
Số là mùa hạ năm đó, nắng khô hết đìa bàu, ao vũng xứ này. Trâu bò phải đi kiếm nước uống ở những cái giếng giữa đồng xa.
![]() | Tui có bầy trâu tất cả là tám con. Nhưng chiều bữa đó, chúng đi về lại lạc mất con đực pháo. Sau mấy tháng lăng xăng chạy kiếm đủ chỗ, tui mới gặp nó đứng chổng khu uống nước ở một cái giếng trong đầu ngàn hậu đất. Gần đi tới, tui thấy con đực pháo đang rùng mình lúc lắc, mặc dù bốn cái chân của nó còn lún sâu dưới thềm đìa. |
Tới thêm chút nữa, tui thấy con trâu như nghe được tiếng động, nó cựa mình vùng lên. Gần lại nữa, tui thấy nó run run, giật giật. Lấy làm lạ, tui lại gần xem. Con trâu làm như hoảng hồn, lúc lắc nhổ bốn cái chân lên, nhưng bốn chân nó ngay đơ, không thấy nhúc nhích gì hết trơn. Con trâu lại cất tiếng kêu “ọa ọa”, rồi nó trân mình đứng dựng tại chỗ, run rẩy. Thấy đít con trâu lủng một lổ, tôi vội quơ nùi rơm nhét lại rồi đưa tay với lấy sợi dây định dẫn nó về. Nhưng con trâu cứ giẫy giụa mà đứng tại chỗ. Cuối cùng tôi phải về, kêu bà nhà ra lôi tiếp con trâu về nhà.
Sau đó, tui với bà nhà mài dao xẻ con trâu. Nào ngờ phèo phổi, ruột gan, thịt thà bên trong con trâu đều bị lũ quạ khoét đít chui vô hồi nào mà ăn sạch trọi. Tui với bả bắt ra được hai trăm hai mươi sáu con quạ vừa lớn vừa nhỏ. Không tin thì hỏi bả thử coi !
61 – RẮN HỔ MÂY TÁT CÁ
Hồi xửa hồi xưa, khi mới tới đất này khai phá, rắn trong rừng U Minh con nào, con nấy lớn lắm. Mới đầu, người ta kể, tui chưa tin. Nhưng rồi có một bữa, tui cùng bà xã vô rừng, tính kiếm cái đìa nào lớn, nước cạn, tát bắt ít cá về ăn.
Tui với bả tới ven rừng, nghe như có tiếng ai đang tát nước từ xa vọng lại. Chả là trong rừng có một cái đìa bề ngang chừng năm thước, bề dài chừng hơn bốn mươi thước, tui đã nhắm chừng từ bữa hổm. Tiếc thiệt, bấy giờ mới tới ven rừng đã có người tát rồi.
- “Ai đó mà lẹ vậy !” - Tôi nói với bả như vậy.
![]() | Nhưng rồi cả hai người vẫn lẹ làng đi tới. Đứng ở mé bờ đìa bên này, núp sau một thân cây tràm bự chảng, tui thấy một con rắn hổ mây ở mé đìa bên kia. Cái đuôi nó ngoéo một đầu, các đầu nó ngoéo một bên, thân hình nó dẹp lại đu đưa. Thì ra nó đang tát nước cho cạn để bắt cá ăn. Tui bấm tay bả một cái đau điếng, ra hiệu đứng yên, để coi con rắn hổ mây này làm gì. |
![]() | Gần xế bóng mặt trời, cái đìa đã cạn, những con cá rô, cá trê đen thùi quẫy đành đạch trên bùn. Bả thích quá, kêu trời một tiếng. Thấy động, con rắn vội bỏ chạy vô rừng. Tui chỉ việc bảo bả về kêu bà con ấp xóm ra bắt mang về. Hổng tin, mọi người cứ hỏi bả thì rõ./. |
62 – ÔM CỔ RẮN
Mùa hạn năm đó, tui đi ăn ong mật sâu trong rừng U Minh. Đến trưa, ngồi dựa lưng vào gốc cây tràm nghỉ mát, tui móc gói thuốc ra ngồi hút. Thấy đằng kia, cách chừng ba công bề đứng, có một cây móp hay cây gì đó chết khô, cành lá rụng rơi đâu hết, chỉ còn lại thân cây trơ trọi. Cây khô này cao hơn các cây xung quanh. Gốc ngọn nó nứt nẻ, thẳng băng, da đen hơi mốc, trên có cái cháng hai. Một điều kỳ lạ là mỗi khi có con chim nào đậu lên cháng hai đó liền bị mất hút, không thấy bay ra.
Tui cũng không để ý, cứ quảy gùi, xách mác đi ăn. Đến xế qua, mật ong đã đầy gùi, tui định về, bỗng nghe có tiếng lửa cháy ào ào từ phía trên gió. Rừng U Minh này bị lửa cháy vào mùa hạn thì ngọn lửa bốc cao ngất trời, táp tới ầm ầm, như một trận bão. Đi rừng mà gặp lửa cháy thì phải mau mau đào đất trấp, chui xuống dưới hoặc trèo lên những cây thật cao, chờ lửa cháy ào qua chớ không phương nào chạy kịp. Lúc đó tui đào đất trấp chui không kịp, phải chạy tìm cây cao mà leo. Tui chạy đến, quăng bỏ gùi mật ong, bỏ cây mác còn lại và tìm được một cây. Tui ôm cây, trèo lên tuột xuống. Cái cây gì mà trơn chuồi, thót lên ba phóng thì bị tuột trở xuống hết hai. Nhưng lửa cháy đã tới gần, tui phải cố trèo. Trèo lên vừa tới chỗ cháng hai thì lửa cũng vừa cháy tới, nhưng chổ cháng hai cái cây sao có nhiều mảnh dầm lười xười tách ra đâm tay tôi đau quá. Mặc dù mỏi run tay nhưng ngó xuống thấy lửa đã cháy tới phía dưới, tui lấy làm khoái chí.
Lửa cháy qua rồi, tui định tụt xuống, nhưng sao nghe cái cây động đậy. Rồi ngay chổ cháng hai lại mọc ra nhánh chà cây quơ qua quơ lại, cào cào vào đầu tui. Tui thụt xuống chút nữa. Cái cây kia cứ ngoéo xuống quét vào đầu tui, vào cổ tui. Nó còn trây vào mình tui một thứ gì nhớt nhợt như nước miếng. Trời đất! Chổ cháng hai lại có hai cái mu lồi ra láng bóng và rực sáng như đèn xe hơi. Trời! Khi không hai cây khép lại, mở ra nghe bầm bập... Hồn vía lên mây, tay chân rũ liệt, tui ngã người ra, sút tay rớt luôn xuống đất. Hai lỗ tai nghe vo vo, mắt nhắm híp lại, phú mặc số mạng cho trời đất.
Khi rớt xuống tới đất, tui thấy mình nằm y chổ ngồi hút thuốc hôm qua. "Cái cây" đằng kia bắt đầu bò đi, le lưỡi, thổi hơi phèo phèo.
63 – RỪNG U MINH THỬO TRƯỚC
Người ta nói ở Cạnh Đề: "Muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội lềnh như bánh canh", chớ vùng này, những năm đầu mới khai rừng thì người ta hay hát đưa em như vầy: " Ở đâu bằng xứ Lung Tràm, chim kêu như hát bội, cá lội vàng như mắm nêm".
Mỗi buổi sáng, giấc hừng đông, lúc đài Hà Nội báo thức thì lũ giang sen, chàng bè, gà dãy, lông ô, khoan cổ, chàng bè... ra tập "thể dục" rần rần. Con nhỏ đứng trước, con lớn đứng sau chẳng khác nào cuộc duyệt quân, thiên binh vạn mã. Loại trích cồ tuy nhỏ con nhưng làm "thầu hồ" nháy nháy cặp mắt màu ve chai, niểng cái đầu có mồng đỏ chót, là "tò le tét le". Vợ chồng nhà quạ nghe vậy, từ trong cũng vội vã bay ra "dạ" rân. Đám vạc ăn đêm về ngủ nướng ở những bụi rậm, giật mình thức giấc, "nhảy mũi" hạt hạt. Trong vườn "đội nhạc công" chìa vôi thổi gió véo von. Dòng họ nhà chim bắt muỗi cũng gõ đầu hòa tấu "toang toang". Đấy chú cưỡng bông đậu chót vót trên cành cao lé mắt "thổi kèn Tây"; chị em tu hú thấy hừng đông, chạnh lòng nhớ quê cất tiếng kêu não nuột. Ngoài mé ruộng nhà, anh chàng nghịch dầm mưa long óc mấy ngày cứ gù lưng "nhảy mũi khìn khịt". Tội nghiệp cho bác mỏ nhác, ăn chi mà đau bụng rên "tằng yết, tằng yết" sáng đêm. Trời vừa tảng sáng, cậu rắn hổ đất đã thổi bể phù phù cho anh chim trảo chẹt "rèn" những cây phản gỗ nghe choảng choảng...
Ở ven rừng U Minh thưở ấy, vào những buổi sáng thật vui vẽ rộn rã làm sao! Ai đi làm đồng trước đó cũng phải nán lại ít nhất ít phút để nghe bản "nhạc rừng hòa tấu".
Lũ chim chóc ngày đó dạn khì, chúng sống lẫn lộn với bầy gia súc. Chàng bè rề rề theo đổ trống vịt xiêm, vịt đẻ... khi trứng nở ra con nào con nấy cái mỏ nhọn thon như mũi kéo. Vịt ta đi đạp mái giang sen, làm con cái giang sen chân lùn tịt, con nào cũng có giọng kêu "cạp cạp". Lạ đời nhất là loại cúm núm, chúng sống chung lộn với gà nhà, lâu ngày cúm núm ngoài đồng, con trống nào cũng có hai cái cựa nhọn lểu. Còn gà trống trong nhà thì đêm đêm cất tiếng gáy vang : "Ò ó o... cúm ! Ò ó o... cúm!".
63 – RỪNG U MINH THỬO TRƯỚC
Người ta nói ở Cạnh Đề: "Muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội lềnh như bánh canh", chớ vùng này, những năm đầu mới khai rừng thì người ta hay hát đưa em như vầy: " Ở đâu bằng xứ Lung Tràm, chim kêu như hát bội, cá lội vàng như mắm nêm".
Mỗi buổi sáng, giấc hừng đông, lúc đài Hà Nội báo thức thì lũ giang sen, chàng bè, gà dãy, lông ô, khoan cổ, chàng bè... ra tập "thể dục" rần rần. Con nhỏ đứng trước, con lớn đứng sau chẳng khác nào cuộc duyệt quân, thiên binh vạn mã. Loại trích cồ tuy nhỏ con nhưng làm "thầu hồ" nháy nháy cặp mắt màu ve chai, niểng cái đầu có mồng đỏ chót, là "tò le tét le". Vợ chồng nhà quạ nghe vậy, từ trong cũng vội vã bay ra "dạ" rân. Đám vạc ăn đêm về ngủ nướng ở những bụi rậm, giật mình thức giấc, "nhảy mũi" hạt hạt. Trong vườn "đội nhạc công" chìa vôi thổi gió véo von. Dòng họ nhà chim bắt muỗi cũng gõ đầu hòa tấu "toang toang". Đấy chú cưỡng bông đậu chót vót trên cành cao lé mắt "thổi kèn Tây"; chị em tu hú thấy hừng đông, chạnh lòng nhớ quê cất tiếng kêu não nuột. Ngoài mé ruộng nhà, anh chàng nghịch dầm mưa long óc mấy ngày cứ gù lưng "nhảy mũi khìn khịt". Tội nghiệp cho bác mỏ nhác, ăn chi mà đau bụng rên "tằng yết, tằng yết" sáng đêm. Trời vừa tảng sáng, cậu rắn hổ đất đã thổi bể phù phù cho anh chim trảo chẹt "rèn" những cây phản gỗ nghe choảng choảng...
Ở ven rừng U Minh thưở ấy, vào những buổi sáng thật vui vẽ rộn rã làm sao! Ai đi làm đồng trước đó cũng phải nán lại ít nhất ít phút để nghe bản "nhạc rừng hòa tấu".
Lũ chim chóc ngày đó dạn khì, chúng sống lẫn lộn với bầy gia súc. Chàng bè rề rề theo đổ trống vịt xiêm, vịt đẻ... khi trứng nở ra con nào con nấy cái mỏ nhọn thon như mũi kéo. Vịt ta đi đạp mái giang sen, làm con cái giang sen chân lùn tịt, con nào cũng có giọng kêu "cạp cạp". Lạ đời nhất là loại cúm núm, chúng sống chung lộn với gà nhà, lâu ngày cúm núm ngoài đồng, con trống nào cũng có hai cái cựa nhọn lểu. Còn gà trống trong nhà thì đêm đêm cất tiếng gáy vang : "Ò ó o... cúm ! Ò ó o... cúm!".
64 – GÀI BẪY BẮT CHIM
Cánh đồng Kinh ngang này vào mùa nước ngọt, các thứ chim lớn như gà dãy, giang sen, chàng bè, lông ô, khoang cổ, diệc mốc từ trong rừng U Minh lũ lượt kéo ra kiếm ăn. Chúng quần đảo mát trời, giậm nhẹp những đồng lúa sạch trọi.
Tất cả các loại chim đó chỉ có giang sen với khoang cổ là thịt ăn có lý, còn phần lớn ăn xảm xì như trứng rồng. Nói thì nói vậy chứ dù ngon hay dở mình cũng phải gài bắt cho ráo đợt để đem ra chợ bán, kẻo chúng phá lúa chịu không thấu.
Cái đám thằng Cường, thằng Thọ gài bẫy đạp, bẫy cò ke, bẫy mổ chỉ bắt trầm kha mỗi ngày vài chục con, có thấm bổ gì. Tui nghĩ ra một cách gài khác tụi nó. Bữa đó tui bỏ một ấm trúm xuống xuồng chống vô rừng đặt lươn. Đem về, tui lựa rặc thứ lươn da vàng, đầu nhọn, loại này mạnh lắm. Tui lấy chỉ ni-long thật chắc cắt ra một sợi dài chừng hai tầm đất, một cầu khúc cây ngáng ngang, một đầu tui cột ngay vào chỗ rún con lươn. Làm xong, tui ôm ra bẫy ruộng thả hai con lươn thành một cặp gần nhau.
Sáng ngày hôm sau, tôi bò ra ruộng rình xem. Ban đầu có một con gà dãy đi lọm khọm tới bên con lươn vừa trông thấy rồi đứng khựng lại, ngóng cổ, liếc mắt nhìn. Thấy con lươn bò nhọi nhọi, nó nhảy vọt tới mổ vào đầu. Con lươn bị đau quá vọt luôn vô bụng con chim rồi tuột ra sau đít. Tới con giang sen cũng vậy. Nó nhảy tới mổ vào đầu con lươn, con lươn vọt mạnh vô bụng, dùi luôn ra sau. Rồi lại đến con chàng bè cũng y vậy...
Một con lươn mồi của tui vọt đến chết xỏ lụi ít nhất cũng một chục con chim. Như vậy là cứ hai xâu làm một, tôi cầm mỗi tay một cây ngáng, la cho chim bay lên, mang tui theo. Tui bay bỗng mặt đất mà lái từng cặp xâu chim thả ra ví vô, về nhà giao cho bả trói đem ra chợ Sông Đốc bán. Vậy mới đã!